Áp Dụng Pháp Luật Là J

Áp Dụng Pháp Luật Là J

Mua tài khoản Hoatieu Pro để trải nghiệm website Hoatieu.vn

Ví dụ về các trường hợp áp dụng pháp luật

Một số ví dụ về các trường hợp áp dụng pháp luật cụ thể cho từng tình huống khác nhau trong cuộc sống:

- Áp dụng pháp luật trong đời sống hàng ngày:

+ Trong giao thông: Khi tham gia giao thông, mọi người phải tuân thủ Luật giao thông đường bộ, như dừng xe đúng vạch kẻ, nhường đường cho người đi bộ, đội mũ bảo hiểm... Vi phạm luật giao thông sẽ bị xử phạt hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ vi phạm.

+ Trong mua bán hàng hóa: Khi mua hàng, người tiêu dùng có quyền được bảo vệ theo Luật bảo vệ người tiêu dùng. Nếu sản phẩm mua về bị lỗi, người tiêu dùng có quyền yêu cầu đổi trả hoặc đền bù thiệt hại.

+ Trong lao động: Người lao động và người sử dụng lao động phải tuân thủ Bộ luật Lao động. Người lao động có quyền được hưởng lương, thưởng, bảo hiểm xã hội, nghỉ phép... Người sử dụng lao động có nghĩa vụ trả lương đúng hạn, đảm bảo an toàn lao động...

- Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh:

+ Trong thành lập doanh nghiệp: Để thành lập doanh nghiệp, cá nhân hoặc tổ chức phải tuân thủ Luật doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và nộp thuế theo quy định.

+ Trong ký kết hợp đồng: Các hợp đồng kinh tế phải đảm bảo tính pháp lý, tuân thủ các quy định của pháp luật về hợp đồng.

+ Trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: Các sản phẩm sáng tạo như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu... được pháp luật bảo hộ. Việc sử dụng trái phép các sản phẩm này sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

- Áp dụng pháp luật trong một số lĩnh vực khác:

+ Trong hôn nhân và gia đình: Việc kết hôn, ly hôn, nuôi con... được điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình.

+ Trong lĩnh vực liên quan đến môi trường: Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải đảm bảo các quy định về bảo vệ môi trường, tránh gây ô nhiễm môi trường.

+ Trong hình sự: Các hành vi vi phạm pháp luật hình sự như trộm cắp, cướp giật, giết người,... sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao

Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức chủ thể có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật, do vậy, hoạt động này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định.

+ Hoạt động cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND vừa là hình thức thực hiện pháp luật của UBND, vừa là hình thức UBND tổ chức cho người sử dụng đất thực hiện pháp luật, do đó hoạt động này phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Luật Đất đai hiện hành quy định

Áp dụng pháp luật mang tính tương tự và ví dụ

Áp dụng pháp luật tương tự là giải quyết vụ việc pháp lý cụ thể trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh vụ việc khác có nội dung tương tự vụ việc đang cần giải quyết hoặc trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật chung.

Áp dụng pháp luật tương tự có thể được thể hiện dưới hai dạng:

+ Thứ nhất, áp dụng tương tự quy phạm pháp luật. Tức là có quan hệ thuộc lĩnh vực luật dân sự điều chỉnh nhưng không có quy phạm trực tiếp điều chỉnh quan hệ A này.

+ Thứ hai, áp dụng tương tự pháp luật. Tức là có quan hệ B, có quy phạm B trực tiếp điều chỉnh, quan hệ B tương tự như A thuộc lĩnh vực do luật dân sự điều chỉnh. Trong trường hợp này có thể dùng quy phạm B để điều chỉnh quan hệ A.

Để hiểu rõ hơn, ví dụ thực tiễn áp dụng pháp luật tương tự như sau :

Một bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi có nội dung như sau: “Trong các năm 2023, bà A tham gia 01 dây hụi tháng và 03 dây hụi tuần, loại hụi hoa hồng và có lãi do vợ chồng bà B, ông C làm đầu thảo. Mỗi dây hụi bà A tham gia 1 phần, các phần hụi đều còn sống và đã góp tiền hụi đến ngày 18/09/2023 âm lịch thì bà B tuyên bố vỡ hụi ngưng khui.

Bà A đã đóng hụi số tiền là 18.000.000 đồng nên khi bà B vỡ hụi, bà A yêu cầu buộc bà B, anh C trả lại cho ông và bà A số tiền hụi”.

Khi này, Tòa án đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A. Buộc bà B và ông C cùng có trách nhiệm trả cho bà B số tiền 18.000.000 đồng.

Khi này, Tòa án có thể áp dụng các quy định của Nghị định 19/2019/NĐ-CP để giải quyết tranh chấp. Do pháp luật không quy định việc chủ hụi tự ý ngưng khui hụi thì hụi viên đã góp hụi chưa lĩnh hụi được xem là đương nhiên rút khỏi dây hụi và được nhận lại tiền hụi đã góp, nên trong vụ kiện này, Tòa án đã áp dụng tương tự pháp luật.

Việc bà A yêu cầu bà B, anh C cùng có trách nhiệm trả lại số tiền hụi đã góp cho bà là có căn cứ đúng với quyền của hụi viên và nghĩa vụ của chủ hụi tham gia hụi hưởng hoa hồng, có lãi được quy định tại khoản 3 Điều 15 và khoản 8 Điều 18 của Nghị định 19/2019/NĐ-CP.

Trên đây là những tìm hiểu của Hoatieu.vn về vấn đề Ví dụ về áp dụng luật. Mời các bạn đọc tham khảo thêm những thông tin hữu ích trong mục Học tập liên quan.

Cả Pháp, Đức và Nhật Bản theo hệ thống các nước Civil Law. Do đó, những nước này có nguồn luật có sự tương đồng nhất định và có khác biệt lớn so với hệ thống Common Law của các nước như Anh, Mỹ… Trong bài viết dưới đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguồn và áp dụng nguồn pháp luật ở các nước Pháp, Đức và Nhật Bản.

Khác với các nước theo hệ thống thông luật, Pháp là quốc gia thuộc hệ thống dân luật nên không giống như các quốc gia Common law, luật thành văn được coi là nguồn cơ bản, chính yếu của pháp luật pháp. Hệ thống pháp luật của Pháp nhấn mạnh rằng các đạo luật là nguồn luật chính và bao gồm có 4 loại được xếp theo thứ tự sau:

Hiến pháp: Hiến pháp được ban hành năm 1958 là nguồn tối cao, quan trọng của Pháp. Tất cả các đạo luật và các quy tắc khác được ban hành đều phải tuân thủ Hiến pháp

Các Hiệp ước: Pháp là một quốc gia thuộc liên minh Châu Âu nên các hiệp ước của liên minh Châu Âu có hiệu lực và bị ràng buộc tại Pháp. Theo các nguyên tắc của Luật Châu Âu thì Luật của liên minh được đặt cao hơn Luật của các quốc gia thành viên. Tuy nhiên thì tại Pháp, nguyên tắc áp dụng lại có vẻ như đi ngược với nguyên tắc của liên minh Châu Âu đó là Hiến pháp là nguồn được ưu tiên áp dụng trước.

Các luật, quy chế của nghị viện: Các luật được thông qua bởi Nghị viện là nguồn cơ bản, nền tảng. Ở Pháp, Bộ luật dân sự Naponeon năm 1804 là đạo luật thành văn cao nhất điều chỉnh các quan hệ dân sự bao gồm các nội dung về tài sản, thừa kế, hợp đồng, hôn nhân gia đình… Bộ luật dân sự Naponeon không chỉ là nguồn quan trọng của Pháp mà còn là hình mẫu cho các Bộ luật dân sự khác trên thế giới.

Ngoài các đạo luật do Nghị viện ban hành thì các quy tắc của Chính Phủ hoặc các cơ quan hành pháp khác cũng được coi là nguồn luật tại Pháp. Các quy tắc của Chính phủ bảo gồm sắc lệnh, thông tư… Các quy tắc của Chính phủ được sử dụng để giải quyết các vụ việc trong những lĩnh vực cụ thể, đặc biệt là các công việc trong qúa trình thực thi pháp luật.

Án lệ: không có tính ràng buộc và không phải là nguồn luật chính thức ở Pháp mặc dù trên thực tế nó đã có ảnh hưởng khá lớn. Các tòa án Pháp đã công nhận vai trò của họ trong việc dần dần định hình luật thông qua các quyết định tư pháp. Sự khác biệt giữa án lệ của Pháp và án lệ trong các hệ thống thông luật dường như là: (1) chúng không được viện dẫn tại các tòa án cấp cao nhất; (2) các tòa án cấp dưới về mặt lý thuyết được độc lập và không bắt buộc phải bị ràng buộc bởi các tòa án cấp cao hơn; và (3) các tòa án không được chỉ trích dẫn án lệ làm cơ sở quyết định trong trường hợp không có luật được công nhận.

Án lệ trong lĩnh vực luật dân sự là yếu bổ sung cho sự trường tồn của BLDS Pháp. Nhìn chung, sẽ là sai lầm nếu ai đó cho rằng, BLDS nước Pháp được pháp điển hoá rất chi tiết và đầy đủ, nó sẽ là cơ sở để giải quyết được tất cả những vấn đề pháp luật dân sự nảy sinh trong xã hội. Thực tiễn đã cho thấy, án lệ trong lĩnh vực luật dân sự đã và đang đóng một vai trò quan trọng cho sự phát triển pháp luật dân sự ở Pháp. Điều này có thể hiểu là, các thẩm phán nên giải thích các qui định, nguyên tắc của Bộ luật dân sự Pháp một cách linh hoạt để nó phù hợp với sự thay đổi của đời sống xã hội.

Thực sự thì Bộ luật dân sự Pháp sẽ không thể tồn tại tách rời với những án lệ của các vụ án dân sự. Án lệ trong luật dân sự chính là nguồn luật bổ trợ cho luật thành văn. Nhiều điều luật trong Bộ luật dân sự được giải thích bởi các toà án. Điều này làm cho các án lệ trong lĩnh vực luật dân sự trở thành phương tiện để hiểu được Bộ luật. Những án lệ quan trọng nhất trong lĩnh vực luật dân sự ở Pháp được thiết lập bởi Toà phá án.

Tương tự như pháp luật của Pháp, là một nước theo truyền thống civil law nên nguồn chủ yếu của pháp luật Đức cũng là các văn bản pháp luật bao gồm các văn bản của Luật Quốc tế, Luật của liên minh Châu Âu và các văn bảo pháp luật quốc gia từ Hiến pháp đến văn bản dưới Luật, từ Luật do các cơ quan lập pháp thông qua cho đến quy tắc, văn bản do cơ quan hành pháp ban hành.

Bên cạnh đó, án lệ cũng được coi là một loại nguồn của luật dân sự giống như pháp luật Pháp. Có thể nói, trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ XVII đến thế kỷ thứ XVIII, án lệ đã đóng vai trò quan trọng trong pháp luật Đức.

Sự hiểu biết và thông thạo các án lệ trong lĩnh vực dân sự có lẽ là cách tốt nhất để các thẩm phán và luật sư ở Đức áp dụng đúng các qui định của Bộ luật dân sự Đức năm 1900. Trong Bộ luật dân sự Đức, các quy định về hợp đồng, bồi thường thiệt hại v.v.. đã được hỗ trợ bởi hàng loạt những án lệ.

Ví dụ, Điều 181 Bộ luật dân sự Đức 1900 quy định một chi nhánh không được cam kết, khi không có sự đồng ý của Công ty mẹ của nó, các hợp đồng nhân danh công ty mẹ, trừ những giao dịch trong phạm vi nghĩa vụ của chi nhánh. Tòa án tối cao CHLB Đức đã giải thích điều 181 với cách hiểu là: các chi nhánh không thể tham gia các giao dịch dân sự khi không có sự cho phép, trừ trường hợp các giao dịch đó chỉ đem lại lợi ích cho công ty mẹ.

Án lệ của Tòa án tối cao CHLB Đức luôn được các toà án cấp dưới tuân theo khi áp dụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Nếu toà án cấp dưới không tuân theo cách giải thích và áp dụng pháp luật của các bản án mà Tòa án tối cao CHLB Đức đã tuyên, thì các toà án cấp dưới có nghĩa vụ giải thích rõ vì sao nó không tuân theo. Thậm chí các luật sư cũng phải thực sự quan tâm đến án lệ, bởi nếu không chú ý đến các án lệ của các toà án cấp cao, thì luật sư có thể sẽ phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng vì tư vấn không đúng.

Nhật Bản là một quốc gia theo truyền thống pháp luật civil law nên nguồn quan trọng, cơ bản của Luật Dân sự cũng như các ngành luật khác là luật thành văn. Tuy nhiên, án lệ vẫn đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật.

Luật thành văn là nguồn của pháp luật Nhật Bản hiện nay bao gồm:

Hiến pháp: Hiến pháp của Nhật Bản được thông qua sau chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1947. Hiến pháp của Nhật chứa đựng các phần ghi nhận và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, quy định về thể chế tam quyền phân lập của Nhật Bản gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp là nguồn cơ bản, quan trọng nhất của Nhật Bản. Luật, pháp lệnh và các hành vi của chính phủ vi phạm Hiến pháp sẽ không có hiệu lực pháp luật. Tòa án là cơ quan tư pháp được trao thẩm quyền độc lập để phán xét luật và các hành vi có tuân thủ hiến pháp không.

Các Bộ luật: Sau Hiến pháp là các Bộ luật như Hình sự, Dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ Luật Tố tụng dân sự. Trong đó, Bộ luật dân sự là nguồn trực tiếp và quan trọng nhất trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.

Bộ luật dân sự Nhật Bản được thông qua vào năm1896. Bộ luật dân sự chịu ảnh hưởng bởi Dự thảo của Bộ luật Dân sự Đức năm 1887 và Bộ luật Dân sự Pháp. Bộ luật dân sự Nhật Bản chia thành 5 quyển:

Quyển một là những quy định chung bao gồm các nguyên tắc, các định nghĩa và quy định cơ bản về dân sự như năng lực chủ thể của cá nhân và pháp nhân, hành vi pháp lý…

Quyển hai là quy định về vật quyền bao gồm các quy định về tài sản gồm vật có thực và quyền tài sản và các quy định về bảo đảm quyền đối với tài sản.

Quyển Ba là Luật nghĩa vụ. Giống như ở các nước luật dân sự khác, luật tra tấn được coi là một nguồn để phát sinh nghĩa vụ, cùng với việc làm giàu bất chính và luật hợp đồng.

Quyển Bốn đề cập đến quan hệ gia đình, bao gồm hôn nhân và giám hộ.

Quyển Năm đề cập đến quyền thừa kế, bao gồm di chúc và quyền thừa kế.

Qua một thời gian áp dụng, Bộ luật dân sự Nhật Bản cũng có sự sửa đổi cho phù hợp nhưng nhìn chung vẫn bao gồm những nội dung cơ bản trên.

Ngoài Bộ luật thì Nhật bản còn ban hành nhiều Luật chuyên ngành điều chỉnh các quan hệ dân sự và cũng được coi là nguồn của Luật Dân sự bao gồm Bộ luật thương mại, Luật Đăng ký bất động sản (1899), Luật Đặt cọc (1899), Luật Đất đai và Cho thuê xây dựng năm 1991, Luật trách nhiệm sản phẩm năm 1994 và Luật hợp đồng người tiêu dùng năm 2000….

Tập quán: Nhật Bản cũng thừa nhận nguyên tắc áp dụng tập quán và tập quán cũng được coi là nguồn của Luật dân sự. Chẳng hạn như trong Bộ luật thương mại của Nhật Bản cho phép áp dụng tập quán thương mại thay cho Bộ luật dân sự.

Ở Nhật Bản, mặc dù có Bộ luật dân sự thì việc áp dụng án lệ cũng được thừa nhận và đóng một vai trò quan trọng. Việc công bố và áp dụng án lệ ở Nhật Bản phải tuân theo một quy trình và nguyên tắc nhất định. Ở Nhật Bản có Uỷ ban án lệ của Toà án tối cao sẽ lựa chọn những bản án đảm bảo đủ điều kiện và tiêu chuẩn để công bố thành án lệ trong tuyển tập án lệ của Toà tối cao và định kỳ 6 tháng 1 lần Toà án tối cao Nhật Bản in và công bố công khai.

Tiêu chí để xác định tính ràng buộc của án lệ tại Nhật Bản phụ thuộc vào việc xác định loại án lệ là án lệ quy phạm, án lệ giải thích hay án lệ hướng dẫn. Thực tế, án lệ quy phạm hoặc án lệ giải thích có tính thực tiễn cao tại Nhật khi được tham khảo để giải quyết vụ việc khác.

Tình tiết sự kiện : Công ty vận tải T (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty bảo hiểm N (Bị đơn - Bên bảo hiểm). Trong hợp đồng, các Bên thỏa thuận áp dụng pháp luật của Anh và thỏa thuận này đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế thương mại, chúng ta đôi khi gặp trường hợp các bên thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh hợp đồng. Thỏa thuận loại này có được chấp nhận không? Trong vụ việc trên, các Bên thỏa thuận tại Điều 2 trong hợp đồng rằng Luật áp dụng đối với hợp đồng bảo hiểm này là Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010, Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005. Những điểm Bộ luật hàng hải chưa quy định thì áp dụng Luật, Tập quán bảo hiểm hàng hải Anh. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Bị đơn viện dẫn pháp luật của Anh và, căn cứ vào Điều 1.2 của hợp đồng, Điều 6.1 Quy tắc bảo hiểm ITC 1995, Điều 246.1.a Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Điều 39.5 Luật Bảo hiểm hàng hải Anh quốc, Bị đơn cho rằng yêu cầu đòi bồi thường tổn thất của Nguyên đơn là không có căn cứ pháp lý. Ở đây, các Bên thỏa thuận khả năng áp dụng pháp luật của Anh và Bị đơn đã khai thác pháp luật của Anh để bảo vệ quyền lợi của mình. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài xét rằng “căn cứ Khoản 2 Điều 22 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC (có hiệu lực từ ngày 01/01/2012), khoản 4 Điều 3 và khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005 và thỏa thuận giữa Nguyên đơn và Bị đơn, pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa Nguyên đơn và Bị đơn là pháp luật Việt Nam và Luật, Tập quán bảo hiểm hàng hải Anh. Tại Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, Nguyên đơn và Bị đơn cho rằng tranh chấp này phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm về yêu cầu thanh toán bồi thường cho rủi ro được bảo hiểm nên luật áp dụng là Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ luật Hàng hải năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, Nguyên đơn và Bị đơn thống nhất áp dụng Điều khoản bảo hiểm thời hạn thân tàu của Hội những người bảo hiểm London ngày 01/11/1995 (gọi tắt là Quy tắc bảo hiểm ITC). Vì vậy, Quy tắc bảo hiểm ITC cũng là luật áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa Nguyên đơn và Bị đơn”. Phần trên cho thấy Hội đồng Trọng tài chấp nhận thỏa thuận của các Bên về khả năng áp dụng pháp luật của Anh và, trong khi giải quyết, Hội đồng Trọng tài cũng viện dẫn tới pháp luật của Anh. Chẳng hạn, liên quan đến rủi ro được bảo hiểm, Hội đồng Trọng tài cho rằng “rủi ro mắc cạn của tàu TB 05 do gặp sóng to, gió lớn làm trôi neo là rủi ro được bảo hiểm thuộc trường hợp tổn thất hay tổn hại của đối tượng bảo hiểm gây ra bởi Hiểm họa của biển, sông, hồ hoặc vùng nước có thể hoạt động được quy định tại Mục I phần Tóm tắt các điều khoản bảo hiểm của Đơn bảo hiểm. Rủi ro này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 244, Khoản 1 Bộ luật hàng hải cũng như Điều 55, Khoản 1 Luật Bảo hiểm hàng hải Anh”. Như vậy, các Bên thỏa thuận khả năng áp dụng pháp luật của Anh và thỏa thuận này được Hội đồng Trọng tài chấp nhận (Hội đồng Trọng tài cũng đã khai thác pháp luật của Anh khi giải quyết tranh chấp). Thực ra, khả năng thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài đã được Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ghi nhận tại khoản 2 Điều 14 theo đó “đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn”. Điều đó có nghĩa là Luật cho phép các Bên lựa chọn áp dụng pháp luật và ở đây các Bên đã lựa chọn áp dụng cả pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam. Đối với khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài, điều luật trên áp dụng “đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài” và, do đó, thỏa thuận áp dụng pháp luật Anh nêu trên chỉ được chấp nhận “đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài” [1] . Từ đó, cần phải xác định quan hệ tranh chấp có yếu tố nước ngoài hay không? Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không định nghĩa tranh chấp có yếu tố nước ngoài và quy định viện dẫn tới Bộ luật dân sự năm 2005 tại khoản 4 Điều 3 theo đó “tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu tố nước ngoài được quy định tại Bộ luật dân sự”. Thực tế, Bộ luật dân sự có đưa ra những dấu hiệu để xác định quan hệ có yếu tố nước ngoài. Cụ thể, theo Điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005, “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Bộ luật dân sự năm 2015 có sự thay đổi so với Bộ luật dân sự năm 2005 vì quy định “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài” (khoản 2 Điều 663). Quy định trên đưa ra hai loại dấu hiệu nhận biết quan hệ có yếu tố nước ngoài: Loại dấu hiệu mang tính chủ quan tập trung vào chủ thể tham gia vào quan hệ và loại dấu hiệu mang tính khách quan tập trung vào xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hay tài sản liên quan đến quan hệ. Ở vụ việc trên, cả hai Bên đều là công ty Việt Nam. Do đó, không thể dựa vào yếu tố chủ quan để xác định quan hệ có yếu tố nước ngoài. Vậy, Hội đồng Trọng tài đã xác định có yếu tố nước ngoài dựa vào yếu tố nào? Thực ra, đối tượng được bảo hiểm là chiếc tàu của Bên mua bảo hiểm bị mắc cạn tại Philipines và điều này cho thấy quan hệ giữa các Bên liên quan đến tài sản ở nước ngoài. Điều đó có nghĩa là quan hệ giữa các Bên đang có tranh chấp có yếu tố nước ngoài nên, trên cơ sở Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, các Bên được thỏa thuận chọn áp dụng pháp luật nước ngoài. Ở đây, chúng ta thấy các Bên đã lựa chọn hai hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ bảo hiểm là pháp luật Việt Nam và pháp luật của Anh trong trường hợp pháp luật Việt Nam không có quy định. Khả năng thỏa thuận chọn 2 hệ thống pháp luật như vậy không được ghi nhận một cách minh thị tại Điều 14 nêu trên. Tuy nhiên, với nội hàm “Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn”, chúng ta có thể hiểu rằng pháp luật hiện hành cho phép các bên thỏa thuận như trên và việc Hội đồng Trọng tài chấp nhận thỏa thuận của các Bên là phù hợp với quy định. Lưu ý là, đối với quan hệ có yếu tố nước ngoài như vụ việc trên, khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 còn quy định “nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp nhất”. Quy định này trao cho Hội đồng Trọng tài quyền xác định pháp luật điều chỉnh và, trong thực tế, Hội đồng Trọng tài thường dựa vào nhiều yếu tố để xác định pháp luật điều chỉnh. Ví dụ, một Phán quyết trọng tài khác ghi “Hợp đồng có tranh chấp có mối quan hệ với Việt Nam vì một bên là Việt Nam, hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam và Người thụ hưởng L/C là một doanh nghiệp Việt Nam, một số chứng từ do cơ quan Việt Nam cấp. Hợp đồng đang tranh chấp cũng có mối quan hệ với Trung Quốc vì một bên là Trung Quốc, hàng hóa được giao tại Trung Quốc, Ngân hàng thanh toán L/C là một Ngân hàng Trung quốc, phân tích hàng hóa do một tổ chức của Trung Quốc tiến hành. Tuy nhiên, trong Đơn khởi kiện, Nguyên đơn theo hướng áp dụng “ luật Việt Nam ” và Đơn khởi kiện đã được gửi đến Bị đơn một cách hợp lệ nhưng Bị đơn không có ý kiến khác. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”. Như vậy, đối với quan hệ có yếu tố nước ngoài, doanh nghiệp biết rằng họ được quyền thỏa thuận áp dụng pháp luật cho quan hệ của mình. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, Hội đồng Trọng tài sẽ tự xác định hệ thống pháp luật thích ứng. Để chắc chắn về hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ với đối tác, doanh nghiệp nên thỏa thuận về pháp luật điều chỉnh như các bên đã làm trong vụ việc trên và thỏa thuận này được Trọng tài chấp nhận.   [1] Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, các bên không có sự lựa chọn vì khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã khẳng định “Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”.

Kỹ thuật Pomodoro giúp tăng đáng kể khả năng tập trung học tập và làm việc, đặc biệt phù hợp với các ngành nghề sáng tạo. Nếu bạn đang tìm cách tăng năng suất trong học tập và làm việc, hãy xem xét kỹ thuật làm việc Pomodoro và tìm hiểu thêm về nó cùng Viindoo qua bài viết dưới đây.

Nguồn gốc của kỹ thuật Pomodoro để quản lý thời gian được Francesco Cirillo phát triển vào năm 1980. Vào thời điểm đó, Francesco cảm thấy khả năng tập trung của mình giảm dần theo thời gian và anh bắt đầu gặp khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Để cải thiện khả năng tập trung, anh nỗ lực tìm ra giải pháp cho mình. Anh bắt đầu có những khoảng nghỉ ngắn giữa các buổi học thay vì học liên tục trong thời gian dài. Cụ thể, Francesco cứ 25 phút học tập và làm việc lại được nghỉ 5 phút.

Nhờ kỹ thuật Pomodoro , anh đã lấy lại được khả năng tập trung và đạt hiệu suất cao khi thực hiện nhiệm vụ. Kỹ thuật quản lý thời gian Pomodoro còn giúp anh xua tan mệt mỏi và tăng cường khả năng sáng tạo. Francesco gọi buổi học kéo dài 25 phút là 1 Pomodoro, có nghĩa là "Cà chua" trong tiếng Anh.

Kỹ thuật làm việc Pomodoro giúp tăng khả năng tập trung trong học tập và làm việc.