Bộ Trưởng Bộ Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam

Bộ Trưởng Bộ Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam

a) Giúp Bộ trưởng chỉ đạo các lĩnh vực: - Tổ chức thực hiện Chiến lược Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030 (giúp Bộ trưởng); - Chỉ đạo xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo; ứng dụng, phát triển, chuyển giao và đổi mới công nghệ; ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật ở địa phương; thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ; đánh giá, thẩm định và giám định công nghệ; quỹ đổi mới công nghệ. - Công tác truyền thông khoa học và công nghệ (giúp Bộ trưởng). - Công tác báo chí, xuất bản. b) Các đơn vị phụ trách: - Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ; - Vụ Ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật; - Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo; - Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ; - Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; - Viện  Ứng dụng công nghệ; - Viện Đánh giá khoa học và định giá công nghệ; - Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng; - Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia. - Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông khoa học và công nghệ (giúp Bộ trưởng); - Báo VnExpress; - Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam; - Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. c) Các địa phưomg phụ trách theo dõi: - Các tỉnh vùng Trung du và Miền núi phía Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên và Hoà Bình. - Các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh. d) Tham gia các Ban Chỉ đạo, Hội đồng, Ủy ban: - Ban Điều hành Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ ở trong và ngoài nước bằng ngân sách nhà nước (Đề án 2395); - Ban Chỉ đạo Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ quốc gia đến năm 2030; - Ban Chỉ đạo Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ và tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; - Ban Chỉ đạo xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án và doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương; - Ban Chỉ đạo xây dựng, thực hiện Đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc cao trên trục Bắc Nam và các dự án đường sắt quan trọng quốc gia; - Ban Điều hành Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Đề án 844); - Ban Chỉ đạo Dự án hỗ trợ xây dựng chính sách đổi mới và phát triển các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp (BIPP); - Hội đồng điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc; - Hội đồng điều phối vùng Tây Nguyên; - Hội đồng Quy hoạch quốc gia; - Tham gia các Ban Chỉ đạo, Hội đồng, ủy ban khác theo phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.

Tiêu chuẩn ứng viên Bộ trưởng Bộ Công an của Đảng Cộng sản Việt Nam

Theo Quy định 214-QĐ/TW năm 2020  về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý do Ban Chấp hành Trung ương ban hành, Bộ trưởng Bộ Công an phải là người:

''Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoặc Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, đồng thời, cần có những phẩm chất, năng lực: Có trình độ cao và am hiểu sâu sắc về quản lý nhà nước, nắm chắc pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế. Có năng lực cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để hoạch định phương hướng, chính sách phát triển ngành, lĩnh vực được phân công và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Có năng lực phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và giữa Trung ương với địa phương, tạo sự đồng bộ trong thực hiện chính sách chung của Đảng, Nhà nước. Có kinh nghiệm lãnh đạo, điều hành và quyết đoán, kịp thời quyết định những vấn đề khó, phức tạp thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách. Không bị chi phối bởi lợi ích nhóm. Đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp thứ trưởng hoặc phó trưởng ban, ngành, đoàn thể Trung ương hoặc lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.''

"Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn của Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, đồng thời, cần có thêm các tiêu chuẩn: Thật sự tiêu biểu, mẫu mực của Ban Chấp hành Trung ương về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo, quản lý, ý thức tổ chức kỷ luật; không bị chi phối bởi sự can thiệp, sức ép bên ngoài và lợi ích nhóm. Hiểu biết sâu rộng tình hình đất nước, khu vực và thế giới; nhạy cảm về chính trị, nhạy bén về kinh tế, am hiểu sâu sắc về xã hội. Có ý thức, trách nhiệm cao, có khả năng đóng góp ý kiến trong việc hoạch định đường lối, chính sách và phát hiện, đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra để Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thảo luận, quyết định. Là Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương trọn một nhiệm kỳ trở lên; đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ; chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố) hoặc trưởng các ban, bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương. Trường hợp Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư công tác trong quân đội thì phải kinh qua chức vụ chủ trì cấp quân khu."

"Tiêu biểu của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác. Có ý thức, trách nhiệm cao, kiến thức toàn diện; tích cực tham gia thảo luận, đóng góp, hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương. Có năng lực tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới ở lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công quản lý, phụ trách. Có năng lực dự báo, xử lý, ứng phó kịp thời, hiệu quả những tình huống đột xuất, bất ngờ; có khả năng làm việc độc lập. Có tố chất, năng lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; có hoài bão, khát vọng đổi mới vì dân, vì nước. Đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp dưới trực tiếp và tương đương.

Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương phải là những cán bộ trẻ; cơ bản đáp ứng được tiêu chuẩn của Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương; qua thực tiễn công tác thể hiện có năng lực, triển vọng phát triển về tố chất lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; được quy hoạch chức danh Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và lãnh đạo chủ chốt tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương, ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương nhiệm kỳ tới và các nhiệm kỳ tiếp theo".

1.1. Về chính trị, tư tưởng: Tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia - dân tộc và nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới của Đảng. Có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng; kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Có tinh thần yêu nước nồng nàn, sâu sắc; luôn đặt lợi ích của Đảng, quốc gia - dân tộc, nhân dân lên trên lợi ích của ngành, địa phương, cơ quan và cá nhân; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tuyệt đối chấp hành sự phân công của tổ chức, yên tâm công tác. Giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn theo đúng nguyên tắc, quy định của Đảng.

1.2. Về đạo đức, lối sống: Mẫu mực về phẩm chất đạo đức; sống trung thực, khiêm tốn, chân thành, trong sáng, giản dị, bao dung; cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Không tham vọng quyền lực, có nhiệt huyết và trách nhiệm cao với công việc; là trung tâm đoàn kết, gương mẫu về mọi mặt. Không tham nhũng, lãng phí, cơ hội, vụ lợi; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, cửa quyền và lợi ích nhóm; tuyệt đối không trục lợi và cũng không để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của mình và chỉ đạo thực hiện nghiêm nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện, việc làm trái với các quy định của Đảng, Nhà nước trong công tác cán bộ.

1.3. Về trình độ: Tốt nghiệp đại học trở lên; lý luận chính trị cử nhân hoặc cao cấp; quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp hoặc tương đương; trình độ ngoại ngữ cử nhân hoặc trình độ B trở lên, tin học phù hợp.

1.4. Về năng lực và uy tín: Có quan điểm khách quan, toàn diện, biện chứng, lịch sử cụ thể, có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; có năng lực cụ thể hoá và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; có năng lực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phân tích và dự báo tốt. Nắm chắc tình hình chung và hiểu biết toàn diện về lĩnh vực, địa bàn, địa phương, cơ quan, đơn vị được phân công quản lý, phụ trách. Kịp thời nắm bắt những thời cơ, vận hội; phát hiện những mâu thuẫn, thách thức, vấn đề mới, vấn đề khó, hạn chế, yếu kém trong thực tiễn; chủ động đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp có tính khả thi và hiệu quả. Năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt, dám đương đầu với khó khăn, thách thức; nói đi đôi với làm; có thành tích nổi trội, có kết quả và "sản phẩm" cụ thể góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; gắn bó mật thiết với nhân dân và vì nhân dân phục vụ. Là hạt nhân quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao.

1.5. Sức khoẻ, độ tuổi và kinh nghiệm: Đủ sức khoẻ để thực hiện nhiệm vụ; bảo đảm tuổi bổ nhiệm (theo quy định của Đảng, độ tuổi trước khi bổ nhiệm không quá 65 tuổi), giới thiệu ứng cử theo quy định của Đảng. Đã kinh qua và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp; có nhiều kinh nghiệm thực tiễn." [12]

(Bqp.vn) - Tiếp nối chuỗi hoạt động trong khuôn khổ Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Lào lần thứ hai, chiều 22/10, tại Sơn La, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam và Đại tướng Chansamone Chanyalath, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào đã đồng chủ trì Hội đàm, ký kết văn kiện hợp tác giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa DCND Lào.

Tại hội đàm, hai bên đã tổng kết, đánh giá kết quả 05 năm hợp tác triển khai Nghị định thư giai đoạn 2020 - 2024 và đề ra mục tiêu, phương hướng hợp tác trong thời gian tới.

Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại hội đàm.

Phát biểu tại hội đàm, Đại tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh, năm 2024 hai bên chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai nước, hai Quân đội, tiêu biểu như: Cuộc gặp cấp cao giữa Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, các chuyến thăm lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước; các hoạt động chào mừng kỷ niệm 75 năm Thành lập Quân đội nhân dân Lào, 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và sắp tới kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đại tướng Phan Văn Giang khẳng định, qua 05 năm triển khai Nghị định thư về hợp tác quốc phòng giai đoạn 2020 - 2024, hai nên đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thực chất, nhiều lĩnh vực vượt chỉ tiêu đề ra. Nổi bật là, quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa Quân đội hai nước ngày càng được củng cố vững chắc hơn. Lãnh đạo Bộ Quốc phòng, các cơ quan, đơn vị hai bên thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc; hai bên đã phối hợp tuyên truyền sâu rộng về tinh thần đoàn kết, tương trợ giữa hai nước, hai dân tộc, đã có hơn 30 hoạt động kỷ niệm “Năm đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào 2022”; phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật và bảo tồn, nâng cấp các công trình, di tích về quan hệ hai nước có giá trị. Trên diễn đàn đa phương, Quân đội hai nước luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, ủng hộ lẫn nhau, đóng góp tích cực vào nỗ lực xây dựng cộng đồng ASEAN.

Đại tướng Phan Văn Giang trao bức tranh lưu niệm tặng Đại tướng Đại tướng Chansamone Chanyalath

Các hình thức, cơ chế hợp tác ngày càng phong phú, lan tỏa sâu rộng hơn, như: Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, Đối thoại Chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, cơ chế hợp tác thường niên giữa các cơ quan, đơn vị hai nước; an ninh, trật tự khu vực biên giới hai nước ngày càng được củng cố vững chắc hơn. Bộ đội Biên phòng, lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới và các Quân khu giáp biên hai bên đã phối hợp duy trì sự ổn định của đường biên giới, mốc giới; tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành nghiêm các văn kiện pháp lý đã được ký kết; duy trì hiệu quả hoạt động kết nghĩa cặp Đồn, Đại đội Bộ đội Biên phòng, cụm dân cư; góp phần quan trọng vào ổn định đời sống nhân dân địa phương, củng cố cơ sở an ninh, chính trị, hiện thực hóa tầm nhìn chung của lãnh đạo cấp cao về tuyến biên giới Việt Nam - Lào hòa bình, ổn định và phát triển bền vững. Hợp tác đào tạo nguồn nhân lực ngày càng được coi trọng hơn; hợp tác công nghiệp quốc phòng, kinh tế quốc phòng ngày càng có trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả hơn...

Đại tướng Chansamone Chanyalath phát biểu tại hội đàm.

Tại hội đàm, Đại tướng Chansamone Chanyalath cám ơn Đại tướng Phan Văn Giang và Bộ Quốc phòng Việt Nam đã đón tiếp đoàn trọng thị, thân tình, đồng thời đánh giá cao công tác chuẩn bị giao lưu. Đại tướng Chansamone Chanyalath nhấn mạnh, Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Lào lần này tiếp tục khẳng định là mô hình hợp tác hiệu quả, đặc sắc giữa hai nước, đồng thời là hoạt động mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước, Quân đội, các địa phương và nhất là nhân dân và lực lượng bảo vệ biên giới của hai nước Việt Nam - Lào trong việc tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, thúc đẩy hợp tác thực chất, cùng nhau xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, vì sự phồn vinh của mỗi nước, đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới.

Đại tướng Phan Văn Giang và Đại tướng Đại tướng Chansamone Chanyalath tại hội đàm.

Thời gian tới, hai Bộ trưởng thống nhất tập trung vào một số nội dung hợp tác trọng tâm sau: Tăng cường hợp tác công tác Đảng, công tác chính trị, trong đó tập trung tuyên truyền, giáo dục hiệu quả về lịch sử, ý nghĩa, tầm quan trọng của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, nhất là các sự kiện lớn của hai đất nước, hai Quân đội. Duy trì hiệu quả các cơ chế hợp tác hiện có, như trao đổi đoàn cấp cao thường niên, Đối thoại Chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và hợp tác thường xuyên giữa các cơ quan, đơn vị hai bên. Tăng cường hợp tác hiệu quả công tác quân sự, quốc phòng, nhất là ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống; hợp tác quản lý, bảo vệ đường biên, mốc giới; hợp tác đào tạo nguồn nhân lực. Nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ lẫn nhau, trong đó, Chính phủ và Bộ Quốc phòng Lào tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi trong tìm kiếm, cất bốc, hồi hương liệt sĩ quân tình nguyện, chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào.

Đại tướng Phan Văn Giang và Đại tướng Đại tướng Chansamone Chanyalath ký Nghị định thư hợp tác quốc phòng song phương Việt Nam - Lào giai đoạn 2025 - 2029 và Kế hoạch hợp tác năm 2025 giữa Bộ Quốc phòng hai nước.

Kết thúc hội đàm, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hai nước đã ký Nghị định thư hợp tác quốc phòng song phương Việt Nam - Lào giai đoạn 2025 - 2029 và Kế hoạch hợp tác năm 2025 giữa Bộ Quốc phòng hai nước.