Mời quý độc giả xem video Thà làm người nghèo mệnh chứ không được làm người nghèo tướng?
Hộ nghèo, hộ cận nghèo có được miễn giảm học phí không?
– Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển. Kinh tế và mức sống của người dân ngày một tăng. tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta vẫn đang ở mức tương đối. Đưa ra những biện pháp hỗ trợ người dân xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân là bài toán mà cơ quan chức năng Nhà nước luôn tìm lời giải trong nhiều năm nay. Một trong những phương thức bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân có hoàn cảnh khó khăn là chính sách miễn giảm học phí mà Nhà nước đưa ra.
– Điều 7 Nghị định 86/2015/NĐ – CP đưa ra về những đối tượng miễn giảm học phí .Theo đó, những đối tượng sau sẽ nằm trong diện đối tượng được miễn giảm học phí:
+ Người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng.
+ Trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế.
+ Trẻ em học mẫu giáo và học sinh dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng.
+ Người từ 16 tuổi đến 22 tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP của Chính phủ
+ Trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông có cha mẹ thuộc diện hộ nghèo theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
+ Trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông là con của hạ sĩ quan và binh sĩ, chiến sĩ đang phục vụ có thời hạn trong lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Học sinh, sinh viên hệ cử tuyển (kể cả học sinh cử tuyển học nghề nội trú với thời gian đào tạo từ 3 tháng trở lên).
+ Học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học, khoa dự bị đại học.
+ Học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo và hộ cận nghèo theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
+ Sinh viên học chuyên ngành Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Học sinh, sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh các chuyên ngành: Lao, Phong, Tâm thần, Giám định pháp y, Pháp y tâm thần và Giải phẫu bệnh.
+ Học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số rất ít người ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
+ Sinh viên cao đẳng, đại học, học viên cao học, nghiên cứu sinh học các chuyên ngành trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
+ Người tốt nghiệp trung học cơ sở học tiếp lên trình độ trung cấp.
+ Người học các trình độ trung cấp, cao đẳng, đối với các ngành, nghề khó tuyển sinh nhưng xã hội có nhu cầu theo danh mục do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở Trung ương quy định.
+ Người học các ngành chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp.
Như vậy, theo quy định của điều luật trên, học sinh thuộc diện hộ nghèo được Nhà nước miễn giảm học phí. Đây được xem là một trong những phương thức hỗ trợ của Nhà nước đối với các hoàn cảnh khó khăn. sự hỗ trợ này của Nhà nước giúp học sinh thuộc diện khó khăn có điều kiện được học tập, được đến trường. Điều này, phần nào giảm đi được những khó khăn, giảm bớt áp lực về kinh tế, khuyến khích con em hộ nghèo có điều kiện học tập tốt nhất để có thể tìm kiếm được việc làm phù hợp trong tương lai. Người ta thường nói, trẻ em là tương lai của đất nước. Việc Nhà nước đưa ra những phương án hỗ trợ phù hợp, kịp thời này góp phần rất lớn vào việc bồi dưỡng, thúc đẩy sự phát triển của thế hệ trẻ. Công dân Việt nam được học tập đầy đủ, điều này đồng nghĩa với việc đất nước Việt Nam cũng ngày một phát triển đi lên.
– Thực tế hiện nay, các chính sách áp dụng miễn giảm học phí cho người dân có hoàn cảnh khó khăn luôn được Nhà nước đẩy mạnh quan tâm. Miễn giảm học phí sẽ giúp các đối tượng khó khăn có cơ hội được học tập và xây dựng tương lai cho mình. Đặc biệt, đối với các cá nhân thuộc diện hộ nghèo, chính sách miễn giảm học phí giúp họ vơi bớt nỗi lo về mặt kinh tế, có nền tảng học tập, có cơ hội phát triển tương lai. Chính sách miễn giảm học phí cho hộ nghèo là cách thức thể hiện tinh thần tương thân tương án, mục đích xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân một cách rõ ràng và sâu sắc nhất.
Tưởng giản đơn, nhưng đây lại là câu hỏi khó: “Người nghèo bao giờ hết nghèo?”. Ở Bạc Liêu, nếu lấy mốc thời gian năm 2015, khi đó cả tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo là 15,5%, hộ cận nghèo là 7,03%. Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 01 của Tỉnh ủy “Về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020”, đến cuối năm 2018 giảm còn 4,3% - bình quân hằng năm giảm 3,75%. Theo tỷ lệ này thì vài năm nữa thôi, người nghèo Bạc Liêu hết… nghèo (tức không còn người nghèo)!?
Tuy nhiên, nhìn ở góc độ khác - góc độ xã hội, cần hiểu rằng: Một tỉnh nghèo, ắt hẳn có nhiều người nghèo. Nhưng một tỉnh giàu, chắc gì chỉ có người giàu? Một quốc gia giàu nhất thế giới cũng đâu đã hết người nghèo?
Đặt vấn đề như vậy để chúng ta không chủ quan, càng phải nỗ lực, quyết tâm, quyết liệt hơn trong công tác giảm nghèo. Đồng thời cũng để “nhắc nhớ” hộ nghèo (và cả những hộ không thuộc dạng nghèo) ý thức sâu sắc hơn, tự chủ hơn trong đời sống, sinh kế… Mỗi chúng ta cần nhận thức tiêu chí nghèo, cận nghèo là con số “ước định” trong hoàn cảnh cụ thể, thời gian cụ thể để phân loại và có hành động giúp đỡ, chia sẻ… Mục tiêu cao hơn phải là “chất lượng cuộc sống”, ở đó là sự đáp ứng mọi nhu cầu thiết yếu của mỗi con người.
Mặc dù hiện tại, cả tỉnh chỉ còn 4,3% hộ nghèo (chưa kể hộ cận nghèo) nhưng nên nhớ, hộ cận nghèo trở lại… nghèo là một ranh giới rất mong manh (nếu chủ quan, không quyết liệt, không chí thú làm ăn). Mặt khác, cái mức thu nhập dưới 700 ngàn và dưới 900 ngàn đồng/người/tháng cho khu vực nông thôn và thành thị, tương ứng như vậy là thu nhập 1 triệu đồng và 1 triệu 300 ngàn đồng với chuẩn cận nghèo là con số quá “khiêm tốn”. Chỉ cần một sự cố, một rủi ro gì đó… xem như cả tháng… nghèo, cả năm nghèo thậm chí cả đời nghèo (mà người nghèo rất dễ bị rủi ro, nhưng tư tưởng lại “chủ quan”: “có ai khó ba đời!”…).
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo giảm nghèo các cấp, dù số lượng hộ nghèo hiện tại không nhiều, nhưng có nhiều cái khó đặt ra. Về mặt thời gian, đây là giai đoạn nước rút. Về mặt công việc thì phần lớn là những vấn đề tồn đọng, “cù cặn”. Đối tượng nghèo thì đa dạng, đa thành phần, mà thành phần nào cũng thuộc dạng “nghèo khó” theo đúng nghĩa. Vì vậy mà nhiệm vụ đặt ra là hết sức nặng nề, nếu không có sự quyết tâm, quyết liệt của cả hệ thống chính trị của toàn xã hội… thì rất khó hoàn thành các mục tiêu đề ra.
Trở lại với đối tượng nghèo trong thời gian nước rút này, có thể tạm chia thành 3 dạng sau đây để thấy vì sao lại khó.
Thứ nhất là dạng ba không: không đất sản xuất, không có phương tiện làm ăn, không nghề nghiệp, cuộc sống bấp bênh, “ba chìm, bảy nổi”… Xin được gọi đây là dạng “nghèo bẩm sinh” - tức sinh ra đã nghèo. Dạng này, phần lớn họ là những người “ly nông và … ly hương”, dùng sức lực của mình đi làm thuê làm mướn bất kể chuyện gì miễn có cái ăn qua ngày đoạn tháng… Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai… nơi xứ lạ quê người đã thành “quê hương” của họ tự lâu rồi!
Thứ hai là dạng người thiếu ý chí vươn lên, lười lao động, không biết ngày mai, có ngày nào “xả láng” ngày đó, mặc kệ số phận, ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, của ai đó… đến nỗi có người không còn sĩ diện với chính bản thân mình. Đã có trường hợp sau khi được Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể… giúp đỡ thoát nghèo nhưng vẫn “quyết liệt đấu tranh” để được… nghèo để hưởng thụ các chính sách như đã nói mà khỏi lao động. Họ hãnh diện “khoe” sống được nhờ… nghèo!... Phải chăng đây thuộc dạng “nghèo có ý thức”?
Dạng nghèo này làm tôi nhớ câu chuyện tiếu lâm: có một thanh niên “lưng dài, vai rộng” ngày nào cũng “khổ nhục kế” đi ăn xin nhưng ngày nào cũng… say. Hỏi vì sao, anh ta “hồn nhiên” trả lời: say để đủ can đảm đi… xin!
Dạng nghèo thứ ba là dạng “nghèo… bền vững”. Đây là dạng nghèo thật sự xót xa. Họ là những người già neo đơn, không sức lao động, là phụ nữ đơn thân nuôi con nhỏ, là những người mắc các bệnh hiểm nghèo, nhiễm chất độc da cam, thiểu năng trí tuệ… rất cần sự giúp đỡ của toàn xã hội, của lòng hảo tâm, bằng tình thương yêu con người… mới mong níu kéo họ sống qua ngày - nói chi đến… hết nghèo, hết khổ!
Đến đây, có lẽ câu hỏi “người nghèo bao giờ hết nghèo” phần nào đã có lời đáp. Tuy nhiên, cho dù họ là ai, dù “nghèo bẩm sinh, nghèo có ý thức hay nghèo bền vững” thì họ vẫn là người nghèo đáng thương (tất nhiên có một bộ phận đáng trách). Và cái nghèo là vấn đề xã hội như đã nói ở phần trên.
Xác định được thành phần, đối tượng, xác định được nguyên nhân là để tìm ra phương kế giúp đỡ, sẻ chia cùng họ vượt qua khó khăn, đẩy cái nghèo vào dĩ vãng. Bởi trong sâu thẳm của mỗi con người, chắc không ai muốn cái nghèo đeo bám theo cuộc đời mình.
Khái niệm hộ nghèo, hộ cận nghèo:
Hộ nghèo, hộ cận nghèo được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Thông tư 17/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành. Theo đó, Hộ nghèo, hộ cận nghèo là hộ gia đình qua điều tra, rà soát hằng năm ở cơ sở đáp ứng các tiêu chí về xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo được quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 2 Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định công nhận thuộc danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn, cụ thể:
Hộ nghèo là những hộ gia đình đảm bảo những điều kiện nhất định theo quy định của Nhà nước và pháp luật. Theo đó, ở từng khu vực, tiêu chí xác định hộ nghèo là khác nhau. Cụ thể:
– Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
– Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Cũng giống hộ nghèo, hộ cận nghèo được xác định theo khu vực, địa phương. Những đối tượng thuộc hộ cận nghèo cần đảm bảo những tiêu chí nhất định như sau:
– Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
– Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Có thể thấy, để xác định hộ nghèo, hộ cần nghèo, Nhà nước sẽ căn cứ vào thu nhập của các hộ đó. Đây đều là những hộ có thu nhập sống kém, mức sống thấp. Nhằm đảm bảo cuộc sống cho những đối tượng này, Nhà nước phải đưa ra những chủ trương xét duyệt hộ nghèo, hộ cần nghèo để có thể đưa ra những biện pháp hỗ trợ kịp thời. Điển hình là sự hỗ trợ về việc miễn giảm học phí cho học sinh, sinh viên.